Ngũ Kinh (Phồn thể: 五經; Giản thể: 五经) là năm quyển kinh điển trong văn học Trung Hoa dùng làm nền tảng trong Nho giáo. Theo truyền thuyết, năm quyển này đều được Khổng Tử soạn thảo hay hiệu đính bao gồm:
– Kinh Thi (Phồn thể: 詩經; Giản thể: 诗经)
– Kinh Thư (Phồn thể: 書經; Giản thể: 尚书)
– Kinh Lễ (Phồn thể: 禮記; Giản thể: 礼记)
– Kinh Dịch (Phồn thể: 易經; Giản thể: 易经)
– Kinh Xuân Thu (春秋)
Xem thêm: Tìm hiểu về Tứ Thư Ngũ Kinh
Nội dung của Ngũ Kinh như sau:
1. Kinh Thi
Kinh Thi, còn được gọi là Thi tam bách (詩三百) hay ngắn hơn là Thi bách (詩百) gồm các bài thơ, các bài ca dao dân gian có từ trước Khổng Tử.
Tương truyền, Thiên tử đi tuần thú cứ năm năm một lần và ra lệnh cho quan Thái sư hiến dâng các bài ca dao để xem phong tục của dân. Kinh Thi được ví như một bức tranh miêu tả toàn cảnh về xã hội đương thời, từ lịch sử, phong tục tập quán, tình trạng xã hội và chế độ chính trị của Trung Quốc thời Chu cho đến sông núi, cây cỏ, chim thú.
Kinh thi được Khổng Tử san định thành ba trăm mười một bài (thời xưa gọi là thiên) nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng. Trong số đó, chỉ có ba trăm lẻ năm thiên là đầy đủ, còn sáu thiên kia có đề mục nhưng không có lời. Có thuyết cho rằng lời thơ của sáu thiên đó bị vong thất bởi ngọn lửa nhà Tần nhưng cũng có thuyết cho rằng sáu thiên ấy vốn không có lời, chỉ có nhạc. Sáu thiên ấy là Nam Nai (南陔 – Nán gāi), Bạch Hoa (白華 – Bái huá), Hoa Thử(華黍 – Huá shǔ), Do Canh (由庚 – Yóu gēng), Sùng Khâu (崇丘 – Chóng qiū) và Do Nghi (由儀 – Yóu yí).
Kinh Thi chia làm ba bộ phận lớn bao gồm: Phong, Nhã và Tụng.
Phong (風) là “Thập ngũ quốc phong”, tức ca dao của 15 nước chư hầu hoặc khu vực bao gồm: Chu Nam (周南 – zhōunán), Thiệu Nam (召南 – Zhàonán), Bội Phong (邶風 – Bèifēng), Dung Phong (鄘風 – Yōngfēng), Vệ Phong (衛風 – Wèifēng), Vương Phong (王風 – Wángfēng), Trịnh Phong (鄭風 – Zhèngfēng), Tề Phong (齊風 – Qífēng), Ngụy phong (魏風 – Wèifēng), Đường Phong (唐風 – Tángfēng), Tần Phong (秦風 – Qínfēng), Trần Phong (陳風 – Chénfēng), Cối Phong (檜風 – Guìfēng), Tào Phong (曹風 – Cáofēng), Mân Phong hoặc Bân Phong (豳風 – Bīnfēng) tổng cộng 160 bài.
Nhã (雅) chia ra Tiểu Nhã (小雅 – Xiǎoyǎ) và Đại nhã (大雅 – Dàyǎ) tổng cộng 105 bài. Trong mỗi Đại nhã và Tiểu nhã lại phân làm “chính” và “biến”. Theo Chu Hy, Chính Đại nhã là nhạc dùng ở triều hội, Chính Tiểu nhã là nhạc dùng ở yến tiệc, phần nhiều do Chu Công Đán chế tác.
Tụng (頌) gồm Chu tụng (周頌 – Zhōu sòng), Lỗ tụng (魯頌 – Lǔ sòng) và Thương tụng (商頌 – Shāng sòng) với tổng cộng 40 bài. Phần Chu tụng ra đời sớm nhất, là tác phẩm đời Tây Chu. Phần Thương tụng là tác phẩm nước Tống, con cháu nhà Thương, sáng tác vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7 – 8 TCN. Còn Lỗ tụng là tác phẩm nước Lỗ vào thế kỉ 7 TCN.
2. Kinh Thư
Kinh Thư còn có tên gọi là Thượng Thư (尚書 – Shàngshū) lưu lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
Bản Kinh Thư hiện hành được chia làm 4 phần bao gồm 56 thiên:
Phần 1 là Ngu thư ghi chép về đời Nghiêu Thuấn gồm 5 thiên:
– Nghiêu điển (Điển phạm, đức nghiệp của vua Nghiêu, Thuấn điển (Điển phạm, đức nghiệp của vua Thuấn);
– Đại Vũ mô (Mưu mô trị nước của Vũ đề nghị lên vua Thuấn);
– Cao Dao mô (Mưu mô của Cao Dao kiến nghị với vua Vũ);
– Ích Tắc (Mưu mô của Ích và Tắc);
Phần 2 là Hạ thư ghi chép về nhà Hạ gồm 4 thiên:
– Vũ cống (Vua Vũ trị thủy, phép cống phú của nhà Hạ, ghi chép về địa lý và sản vật);
– Cam thệ (Lời thệ sư ở đất Cam khi vua Khải đi đánh họ Hữu Hộ);
– Ngũ tử chi ca (Bài ca của năm người em khuyên can vua Thái Khang);
– Dận chinh (Dận hầu đi chinh phạt họ Hy và họ Hòa).
Phần 3 là Thương thư ghi chép về nhà Thương gồm 11 thiên:
– Thang thệ (Lời thề của vua Thang khi đem quân đánh vua Kiệt nhà Hạ);
– Trọng Hủy chi cáo (Lời ông Trọng Hủy giải thích hành động “cách mạng” của vua Thang);
– Thang cáo (Bá cáo của vua Thang sau khi diệt nhà Hạ);
– Y huấn (Lời Y Doãn dạy bảo Thái Giáp lúc mới lên ngôi);
– Thái Giáp thượng, trung, hạ (Những lời Y Doãn khuyên vua Thái Giáp và những lời hối lỗi của Thái Giáp);
– Hàm hữu nhất đức (Lời Y Doãn dặn bảo vua Thái Giáp trước khi ông về nghỉ);
– Bàn Canh thượng, trung, hạ (Vua Bàn Canh dời đô về ấp cũ để lấy lại vương khí, giải thích và chỉ bảo cho nhân dân về việc dời đô);
– Duyệt mệnh thượng, trung, hạ (Vua Vũ Đinh tìm được Phó Duyệt là người tài, trao quyền và nghe theo Phó Duyệt);
– Cao Tông dung nhật (Con vua Cao Tông can vua về việc tế cha đẻ long trọng hơn tế tổ tiên);
– Tây Bá kham Lê (Chức bá miền Tây đánh nước Lê);
– Vi Tử (Vi Tử định cứu vua Trụ nhưng không được).
Phần 4 là Chu thư ghi chép về nhà Chu, đến thời Tần Mục công bao gồm các thiên còn lại.
Bản Kim văn thời Tây Hán chia làm 5 phần: Đường thư, Ngu thư, Hạ thư, Thương thư và Chu thư. Bản Cổ văn thời Đông Hán chia làm 3 phần: Ngu Hạ thư, Thương thư và Chu thư.
Đó là nội dung của Kinh Thư trong Ngũ kinh.
3. Kinh Lễ
Kinh Lễ hay còn gọi là Lễ ký ghi chép lại các lễ nghi thời trước cùng với Chu lễ và Nghi lễ được gọi chung là Tam lễ. Khổng Tử hiệu đính lại Kinh lễ mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự xã hội. Khổng Tử nói: “Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời” (sách Luận Ngữ).
Kinh Lễ chủ yếu chép về lễ, chẳng những bao quát hết các loại lễ tiết mà rộng ra, nó còn bao quát hầu hết các hiện tượng văn hóa, các loại quy tắc cơ bản về các hiện tượng văn hóa. Từ sách Kinh Lễ chúng ta có thể hiểu được về quy định ban tước phẩm quốc gia, các quy định về ban lộc, tông pháp, tế tự, tuần thú, hình luật, học đường và cả các sinh hoạt thường ngày như ngôn ngữ, ăn uống, ứng đối…
Kinh Lễ cho rằng: Lễ sản sinh là do sự cần thiết của nhân tính.
Chương “Lễ vận” quy nạp nhân tính thành “thất tình” (bảy tình cảm) và “thập nghĩa” (mười nghĩa), chỉ có Lễ mới tiết chế được ác tính trong “bảy tình” ấy.
Thất tình là gì? Đó là Hỷ (vui), Nộ (giận), Ai (buồn), Cụ (sợ), Ố (ghét), Dục (muốn), Ái (yêu), không cần học cũng có bảy tình ấy.
Thập nghĩa là gì? Đó là cha phải từ, con phải hiếu, anh phải lương thiện, em phải kính cẩn, chồng phải có nghĩa, vợ phải thuận tòng, lớn phải có ân, nhỏ phải thuận, vua phải nhân, tôi phải trung, mười điều ấy gọi là thập nghĩa.
Bố cục của Kinh Lễ bản thông dụng bao gồm 49 chương:
(1) Khúc lễ thượng
(2) Khúc lễ hạ
(3) Đàn cung thượng
(4) Đàn cung hạ
(5) Vương chế
(6) Nguyệt lệnh
(7) Tăng Tử vấn
(8) Văn Vương thế tử
(9) Lễ vận
(10) Lễ khí
(11) Giao đặc sinh
(12) Nội tắc
(13) Ngọc tảo
(14) Minh Đường vị
(15) Tang phục tiểu ký
(16) Đại truyện
(17) Thiếu nghi
(18) Học ký
(19) Nhạc ký
(20) Tạp ký thượng
(21) Tạp ký hạ
(22) Tang đại ký
(23) Tế pháp
(24) Tế nghĩa
(25) Tế thống
(26) Kinh giải
(27) Ai Công vấn
(28) Trọng Ni yên cư
(29) Khổng Tử nhàn cư
(30) Phường ký
(31) Trung dung
(32) Biểu ký
(33) Truy y
(34) Bôn tang
(35) Vấn tang
(36) Phục vấn
(37) Gián truyện
(38) Tam niên vấn
(39) Thâm y
(40) Đầu hồ
(41) Nho hạnh
(42) Đại học
(43) Quan nghĩa
(44) Hôn nghĩa
(45) Hương ẩm tửu nghĩa
(46) Xạ nghĩa
(47) Yến nghĩa
(48) Sính nghĩa
(49) Tang phục tứ chế
4. Kinh Dịch
Kinh Dịch được cho là có nguồn gốc từ huyền thoại Phục Hy. Tương truyền vào thời tối cổ, vua Phục Hy (伏羲 – Fú Xī), vị vua huyền thoại của Trung Quốc, niên đại khoảng 2852-2738 TCN là người đầu tiên phát minh ra những ký hiệu nguyên thủy của Kinh Dịch.
Vua Phục Hy ngửa xem tượng trời, cúi xem phép tắc dưới đất, xem các văn vẻ của chim muông cùng những thích nghi của trời đất thế rồi mới sáng tạo ra bát quái (八卦 – bā gùa) là tổ hợp của ba hào để thông suốt cái đức của thần minh
Dưới triều vua Vũ (禹 – Yǔ) nhà Hạ, bát quái đã phát triển thành quẻ, có tất cả sáu mươi tư quẻ (六十四卦 – lìu shí sì gùa), được ghi chép lại trong kinh Liên Sơn (連山 – Liánshān) còn gọi là Liên Sơn Dịch. Liên Sơn, có nghĩa là “các dãy núi liên tiếp” trong tiếng Hoa, bắt đầu bằng quẻ Thuần Cấn (艮 – gèn) (núi), với nội quái và ngoại quái đều là Cấn (tức hai ngọn núi liên tiếp nhau) hay là Tiên Thiên Bát Quái.
Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Sự sắp xếp của vua Văn Vương được gọi là Hậu thiên bát quái.
Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch.
Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
5. Kinh Xuân Thu
Kinh Xuân Thu (春秋 – Chūnqiū) cũng được gọi là Lân Kinh (麟經 – Línjīng) ghi chép các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử giai đoạn từ năm 722 TCN tới năm 481 TCN. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa.
6. Kinh Nhạc
Kinh Nhạc bàn về nhạc thuật và nhạc khí, nhưng nguyên bản đã bị thiêu hủy trong Chiến tranh Hán – Sở, chỉ còn đôi chút làm thành một thiên trong Kinh Lễ, gọi là Nhạc ký. Tuy nhiên, giới học giả cũng cho rằng, so với 5 cuốn còn lại thì sách này có phẩm chất thấp nhất.
Trên đây là bài viết về Ngũ Kinh – một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Trung Quốc.
TIẾNG TRUNG NGUYÊN KHÔI hy vọng sẽ giúp các bạn hiểu hơn về văn hóa Trung Quốc cũng như giúp cho quá trình tự học tiếng Trung của các bạn vui vẻ và hứng thú hơn.